TƯ VẤN PHẢN BIỆN & GĐXH TƯ VẤN PHẢN BIỆN & GĐXH

Kỳ vọng đột phá về quản lý tài nguyên nước

Cập nhật lúc:   14:48:22 - 08/12/2022 Số lượt xem:   416 Người đăng:   Administrator
Các chuyên gia, nhà khoa học phản biện tại hội thảo Các chuyên gia, nhà khoa học phản biện tại hội thảo

Việc bảo đảm tính nhất quán và toàn diện trong quy hoạch, quản lý, phát triển tài nguyên nước và phòng tránh giảm nhẹ thiên tai là rất cần thiết, đặc biệt trong điều kiện biến đổi khí hậu, vì vậy nên thống nhất về một đầu mối. Điều này cũng phù hợp Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị.

Đây là mong muốn của các chuyên gia tại hội thảo Nâng cao hiệu quả thực hiện Kết luận số 36-KL/TW về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập hồ chứa nước đến năm 2030 tầm nhìn 2045 do Liên hiệp Hội Việt Nam vừa tổ chức vào tháng 11 vừa qua.  
Kỳ vọng đột phá từ thực hiệnKết luận số 36-KL/TW
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn tài nguyên nước khá phong phú, dồi dào. Tổng lượng nước mặt trung bình khoảng 840 tỷ mét khối/năm. Với hơn 7.500 đập, hồ chứa đã tạo nên dung tích trữ nước chủ động trên 70 tỷ mét khối.
Tuy nhiên, theo Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phan Xuân Dũng, nguồn nước đang phải đối mặt với tình trạng sụt giảm về trữ lượng do tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng; thay đổi chế độ dòng chảy; phụ thuộc nhiều vào nguồn nước sản sinh từ bên ngoài lãnh thổ; thoái hóa rừng làm giảm khả năng giữ nước, điều hòa nguồn nước…
Thời gian qua, Nhà nước đã bố trí gần 16.000 tỷ đồng để sửa chữa, nâng cấp, bảo đảm an toàn cho hơn 800 hồ chứa. Hiện, vẫn còn 1.200 hồ chứa bị hư hỏng xuống cấp, chưa được sửa chữa, nâng cấp, trong đó có 200 hồ chứa hư hỏng nghiêm trọng cần xử lý cấp bách. “Thời gian tới, nếu không có giải pháp đột phá, Việt Nam sẽ đứng trước nguy cơ mất an ninh nguồn nước và mất an toàn hồ đập, hồ chứa nước”, ông Phan Xuân Dũng nhấn mạnh tại hội thảo "Nâng cao hiệu quả thực hiện Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị về Bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 (gọi tắt là Kết luận số 36)" sáng 9.11.
Kết luận số 36 ban hành ngày 23.6.2022 đặt mục tiêu đến năm 2025, hoàn thành việc lập quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành liên quan đến nước; đến năm 2030 cân đối đủ nước phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội, tỷ lệ dùng nước sạch ở thành thị đạt 100% và nông thôn là 80%... Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị có kết luận về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa, cho thấy vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác này đối với phát triển kinh tế - xã hội và an sinh xã hội. Việc triển khai đồng bộ các giải pháp của Kết luận số 36 được kỳ vọng sẽ mang lại đột phá trong quản lý, bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập. 
Đánh giá an toàn hồ, đập phải đủ 3 tiêu chí
Theo Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam Đào Xuân Học, hiện có một số rào cản, bất cập từ chính sách cũng như tổ chức quản lý nhà nước về tài nguyên nước, ảnh hưởng tới an ninh nguồn nước cũng như an toàn hồ, đập.
Cụ thể, pháp luật trong lĩnh vực thủy lợi được thể hiện trong các luật: Tài nguyên nước, Thủy lợi, Đê điều, Phòng tránh giảm nhẹ thiên tai, Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi… Song, Luật Tài nguyên nước lại không nói đến điều hòa dòng chảy, phát triển tài nguyên nước, xây dựng công trình và quản lý phân phối nước sau khi công trình được xây dựng. “Vẫn còn khoảng trống chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước”, ông Học đánh giá.
Về tổ chức quản lý nhà nước hiện chưa hợp lý, còn chồng chéo, kém hiệu quả, đặc biệt là việc phân chia chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ phân phối tài nguyên nước với khai thác, sử dụng, phát triển nguồn nước, quản lý hệ thống công trình thủy lợi và phòng, chống thiên tai.
Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam Đào Xuân Học

Một đại diện Tổng cục Thủy lợi cho biết Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vừa trình Thủ tướng dự thảo (đã lấy ý kiến lần 2) Kế hoạch hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận số 36-KL/TW để xem xét ban hành thời gian tới.
Kế hoạch đặt ra 11 nhiệm vụ chủ yếu, như: tổ chức, triển khai thực hiện Kết luận số 36; công tác tuyên truyền; hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hồ, đập; nâng cao chất lượng quy hoạch, điều tra cơ bản; nâng cao năng lực tích trữ, điều hòa, phân phối nguồn nước, tiêu, thoát nước…
Vị chuyên gia này nêu rõ, tài nguyên nước của nước ta phân bố không đều trong năm và giữa các năm. Hầu hết các loại hình thiên tai đều liên quan đến nước. Do đó, công tác quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước và phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai không thể tách rời nhau, cũng như không thể tách rời quản lý tài nguyên nước với việc lập các chương trình phát triển, điều hòa lại nguồn nước mặt, nước ngầm, phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai (lũ lụt, úng, hạn, xâm nhập mặn…) và khai thác, sử dụng nước để cung cấp nước phục vụ sản xuất, nhu cầu dân sinh ở nông thôn và thành thị.
Từ thực tế đó, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam cho rằng nên thống nhất về một đầu mối sẽ không gây ra sự chồng chéo và khoảng trống, giảm kinh phí đầu tư cho quy hoạch song song là quy hoạch tài nguyên nước và quy hoạch thủy lợi. Chính phủ sẽ quyết định đầu mối này đặt ở bộ đa ngành nào. Điều này cũng phù hợp với Kết luận số 36 khi quy định rà soát, sắp xếp, kiện toàn hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý nguồn nước theo hướng thống nhất, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; có đầu mối tổ chức triển khai bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước; nghiên cứu thống nhất đơn vị quản lý, khai thác, vận hành hệ thống thủy lợi vùng, quốc gia.
Đồng tình quan điểm trên, ông Nguyễn Quang Hòa, nguyên Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Nghệ An cho rằng, Chính phủ cần quy định chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên nước giữa Bộ chủ trì với các bộ liên quan và địa phương. Cùng với đó, cần ưu tiên giải pháp xây dựng hồ chứa nước trong giải pháp công trình cấp nước cho các đối tượng có nhu cầu.
Theo các chuyên gia của trường Đại học Thủy lợi, để bảo đảm an toàn hồ, đập nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước, cần đánh giá chính xác trạng thái làm việc của hồ, đập với 3 điều kiện, gồm: mất an toàn kết cấu công trình, mất an toàn do điều kiện ngoại biên thay đổi so với thiết kế ban đầu, mất an toàn cho hạ lưu nếu xảy ra sự cố. Việc đánh giá an toàn hồ, đập nên được lập thành hồ sơ quản lý để có thể theo dõi cũng như có phương án ứng cứu, phục hồi, nâng cấp, sửa chữa thích hợp.L.H
Hội thành viên
Số Lượt Truy Cập
perm_identity Trong ngày: 74
accessibility Hôm qua: 92
account_circle Trong tháng: 275.320
account_box Trong năm: 23.943
supervisor_account Tổng truy cập: 3.164.263