Con người sống ai cũng phải qua vòng luân hồi sinh tử. Khác với phong tục lễ nghi an táng, thờ cúng của đồng bào Kinh ở miền xuôi, người Raglai cũng có “cái của riêng” mình mà không phải nơi nào ....
Cập nhật ngày: 17/11/2017
Nguyễn Bá Nha
Con người sống ai cũng phải qua vòng luân hồi sinh tử. Khác với phong tục lễ nghi an táng, thờ cúng của đồng bào Kinh ở miền xuôi, người Raglai cũng có “cái của riêng” mình mà không phải nơi nào cũng có được. Đó là tục dựng thuyền Kagor trên nóc nhà mồ với mong muốn người khuất núi sẽ được con thuyền trắng đưa linh về thế giới trời biển yên bình, nơi đoàn tụ cuối cùng cũng là nơi xuát phát của tổ tiên và xin thần linh phù hộ cho những người còn ở lại.
DẤU ẤN“BIỂN”
Cùng với sự xuất hiện và vận động, phát triển sinh tồn của tộc người này song hành với dân tộc Chăm trên đất Khánh Hòa, Người Raglai sớm hình thành từ khoảng trước thế kỷ XV. Đồng thời là một trong 5 tộc người thuộc ngữ hệ Mã Lai - Đa Đảo(Chăm, Raglai, Chu Ru, Êđê, Giarai) sinh sống lâu đời ở Duyên hải và miền núi Nam Trung Bộ. Đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy họ có nguồn gốc thủy tổ sinh cư ven biển.
Tỉnh Khánh Hòa có 31 dân tộc anh em sinh sống gắn bó hàng thế kỷ, người Raglai với dân số là 122.245 người (theo Tổng điều tra Dân tộc và Nhà ở năm 2009) chiếm 3,4 % dân số toàn tỉnh, sống tập trung chủ yếu ở các huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, Cam Ranh. Đại bộ phận sinh sống ở Ninh Thuận; còn lại số ít sống rải rác ở Bình Thuận, một số xã ở huyện Đơn Dương, Di Linh (Lâm Đồng). Tập quán du canh du cư, sống đoàn kết và quây quần thành từng pa – lây (làng), chhom (xóm) đứng đầu là các pô pa-lây (già làng) có công lập làng. Pô pa- lây và “các đầu khôn người già”(acoq ravuãh tuha) có uy tín nhất giải quyết việc làng việc nước. Một pa – lây được tổ chức cấu thành từ các họ hàng ( pitẽq), gia đình (sàc). Mỗi gia đình gồm các thế hệ ông bà, cha mẹ, con cháu tuân theo chế độ mẫu hệ (boh sang). Người chủ nhà là người phụ nữ lớn tuổi nhất trong gia đình, thường thì đại gia đình. Dân tộc Raglai cũng như các dân tộc cư trú lâu đời trên dãy Nam Trường Sơn Tây Nguyên sinh sống từ lâu đời trên lãnh thổ Việt Nam. Nghiễm nhiên, đời sống lao động, sản xuất và sinh hoạt tín ngưỡng phụ thuộc lớn vào sự tác động của môi trường tự nhiên, thêm nữa là môi trường xã hội. Từ tư duy, quan niệm sống chịu ảnh hưởng của văn hóa Á Đông. Họ sống trọng tình nghĩa, tôn sùng thần linh, biết ơn ông bà đã sinh ra nòi giống. Theo các nhà nghiên cứu, văn hóa Raglai mang hơi thở của biển mặc dù palây của họ ở miền cao trên 500m so mực nước biển.
Thật vậy, yếu tố biển hiện rõ trong từng câu chữ của truyện cổ (Akhàt ter), truyền thuyết (Cơi Masirĩh – Mỏq Vila), sử thi (Akhàt Jucar), làn điệu dân ca (hát kể, hát khan, hát ru, hát đối), lời nói vần (đờp pacap, pađic pa jơu), câu đố (đờp paduah)... yếu tố biển hiện thân chính nhân vật của truyện, các sự kiện chống lại thiên tai địch họa (đại hồng thủy, thù địch, thú dữ)... Thuyền Kagor là vật chất còn sót lại sau hàng ngàn thế hệ, dấu ấn về biển trong tâm thức của cư dân luôn còn Raglai đọng lại sâu kín, thầm lặng mà thăng hoa.
Trao đổi với chúng tôi, Thạc sĩ Trần Kiêm Hoàng (Phòng Văn hóa và Thông tin TP. Cam Ranh – Khánh Hòa) người nhiều năm nghiên cứu, am hiểu văn hóa Raglai chia sẻ: “Nếu rừng là toàn bộ văn hóa Raglai hiện tại thì biển hầu như là toàn bộ văn hóa Raglai trong quá khứ. Về nguồn gốc có nhiều giả thiết cho rằng họ vốn là cư dân bản địa, chủ nhân lâu đời ở khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ trước khi người Chăm đặt chân đến đây. Người Chăm phát triển và xây dựng vương quốc Chămpa hùng mạnh khiến người Raglai phải rút dần lên vùng núi cao để sinh tồn. Cùng với thời gian, những giá trị văn hóa biển trở thành trầm tích trong văn hóa của người Raglai. Yếu tố biển còn là dấu ấn qua truyện cổ, truyền thuyết, sử thi, các làn điệu hát kể, hát khan… Có một phong tục nơi mà trầm tích về biển nổi lên đậm đặc là tục dựng ahòq (tàu linh) trên mái nhà mồ trong lễ bỏ ma (Vidhi atơu) của người Raglai, đây là nét văn hóa độc đáo nhiều màu sắc nhất.”
THUYỀNKAGOR– BIỂUTƯỢNG VĂN HÓA DÂN GIAN RAGLAI
Qua tư liệu, sách báo, đại chúng, đồng thời tham dự trên các diễn đàn, hội thảo khoa học và những cuộc điền dã dài hơi mới cảm nhận được “cái vốn” văn hóa đa sắc màu của một tộc người mà họ chính đóng vai trò chủ thể. Từ điều kiện cư trú, thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng đất đai, lao động sản xuất người Raglai đã tạo cho mình một bản sắc văn hóa độc đáo, riêng biệt mà không dị biệt. Qua khảo sát không gian văn hóa Raglai, từ hệ thống các nghi lễ gồm hai bộ phận là: các nghi lễ vòng đời người và các nghi lễ vòng đời cây trồng. Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng cũng thể hiện khá rõ nét về nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc xây dựng luôn gắn liền với đời sống tinh thần, nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng “đa thần”của họ. Cấu trúc nhà ở gần giống các dân tộc thiểu số khác trên dãy Nam Trường Sơn Tây Nguyên, khác là có cột cái lớn giữa nhà. Nhìn chung nghệ thuật bài trí và điêu khắc nhà ở đơn giản, không cầu kỳ, hoa văn. Tuy nhiên, riêng kiến trúc nhà mồ thì người Raglai đặc biệt chú trọng và trau chuốt, chỉn chu hơn, tất nhiên theo trình độ và tư duy của họ. Hơn nữa, quan niệm, tư duy, nhận thức của họ thông qua luật tục cổ truyền, phong tục tập quán đã góp phần sinh động bức tranh nông thôn miền cao mang đậm chất dân gian.
Khi nói đến nhà mồ Raglai thì phải kể đến“thuyền Kagor”. Theo chân các nhà nghiên cứu qua các cuộc khảo sát chúng tôi cho rằng “Kagor” xuất phát từ những người Raglai ở Ninh Thuận. Theo cách phát âm, từ “Gor” chỉ địa danh Ninh Thuận. Còn Kagau xuất phát từ hình ảnh quen thuộc là sừng trâu, tiếng bản địa “cuvau” là trâu. Thí dụ, bà con hay nói câu “Nãu palơi Gor” tức “Đi đến làng Ninh Thuận”. Hay câu nói: “Chhar, salau, cuvau, goq, cheh jro (tức Mã la, mâm thau, con trâu, nồi đồng, ché cổ là năm tài sản quý). Theo phong tục cổ truyền, hầu hết các nghi lễ trong tín ngưỡng “vạn vật hữu linh” đều có lễ vật ahòq (Thuyền/ tàu đưa linh) để dâng lễ vật, cầu cúng. Ahòq có cả hai loại Kago và Kagau đều có chung một mục đích là đưa linh hồn người chết về với thế giới ông bà, tổ tiên. Nhưng khác nhau ở cấu trúc và cách thức lễ. Kagau có hình dạng như sừng trâu , được nối chặt với trụ chính từ trái bầu mẹ (bằng gỗ) bên trong mái của nhà mồ. Về lễ vật giảm một con heo, do thuyền Kagau làm trực tiếp, còn Kagor thì phải cúng tại nhà rồi mới rước lên mộ.
Già làng Bo Bo Đe ( 72 tuổi) ở Sơn Tân, Cam Lâm, Khánh Hòa bộc bạch: “ Thuyền Kagor được làm trước và cúng mâm cơm tại nhà chủ tang. Sau đó mới khiêng rước từ nhà lên, đưa lên nóc nhà mồ phải“đập heo”, “đập gà”, “ bốc ché” để cúng Kagor.
Người khiêng phải là trai tráng chưa có vợ, người chủ lễ là Chủ Nhang có tiếng. Cuộc chia tay vĩnh viễn hay nói theo cách của đồng bào Raglai là lễ dứt đứt quan hệ giữa người chết và kẻ sống. Từ nay, nhờ con thuyền trắng sẽ đưa linh hồn của người quá cố về nơi biển trời xa xôi, đó là nơi xuất phát của cha ông, tổ tiên trước khi chuyển kiếp. Chúng ta sẽ cầu cho họ ở thế giới bên kia có đủ cái ăn, cái mặc. Họ và thần linh sẽ phù hộ dân làng.”
Không phải là con thuyền dùng cho phương tiện giao thông đường thủy, càng không phải mô hình dùng làm vật trang trí. Thuyền Kagor là một công trình nghệ thuật, kiến trúc độc đáo và cũng lắm công phu của người dân, nghệ nhân Raglai. Đây xem như linh vật được đúc kết, chọn lọc từ tinh hoa, sản vật của núi rừng qua bàn tay tài hoa, khéo léo. Theo tập quán truyền thống, luật tục cổ truyền thì sau khi gia đình có người chết, gia đình và họ, làng tiến hành các nghi lễ do Chủ nhang (thầy cúng) chủ xướng bái xái. Các bước động thổ, làm nhà mồ được tiến hành sau đó. Cuối cùng là lễ bỏ mả (hay lễ bỏ ma) tiếng bản địa là Vidhi atơu.
Ông Lê Văn Hoa, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Khánh Hòa:
“Trong hệ thống các nghi lễ của người Raglai thì Lễ bỏ mả là nghi lễ tâm linh tiêu biểu, nó mang đậm màu sắc văn hóa dân gian. Vừa tích hợp các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống vừa thể hiện sự gắn kết cộng đồng. Qua đó, thấy được tính nhân văn, tính giáo dục qua việc thực hiện làm thuyền Kagor trên nóc nhà mồ. “Lễ hội bỏ mả của người Raglai ở Khánh Sơn ” được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịchcông nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2012, thuộc loại hình tập quán xã hội và tín ngưỡng. Hiện nay, khi nhu cầu xã hội nâng cao, đời sống phát triển, ngôi nhà mồ được xây dựng bằng chất liệu kiên cố, dần mất đi hình ảnh Kagor đầy sắc màu. Cho nên việc cấp bách hiện nay là phục dựng, duy trì, bảo tồn và phát huy bản sắc là điều tiên quyết nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII đã nêu”.
Sau khi làm các nghi lễ cúng bái, chôn cất, đợi ngày lành tháng tốt làm lễ bỏ mả, thường thì vào tháng ba, tháng tư dương lịch. Đa số tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, thời tiết mà họ tổ chức. Hiện nay, một số nơi đã áp dụng làm lễ bỏ mả kết hợp lễ tang ma cho bớt tốn kếm. Nhà mồ Raglai truyền thống được làm bằng chất liệu núi rừng: mái bằng tranh, mây; có bốn cột được chọn lựa và đẽo gọt, chạm khắc hoa văn, họa tiết theo dạng khấc tròn, vặn tròn, đối xứng, thường hai cột tròn và hai cột vuông. Các màu chủ lực là đen, trắng, đỏ, điều, tím, lam, vàng… Người Raglai vốn gắn bó, thân thiện thiên nhiên nên họ chọn chất liệu chính từ vỏ cây, lá và các loại củ, quả, dây leo, với tro… để pha trộn, chế tác chất liệu. Nhà mồ hiện nay được hiện đại hơn bằng vật liệu xi măng, cốt thép, lợp ngói hoặc tôn. Thuyền Kagor được làm bằng chất liệu cũng giống như nhà mồ. Riêng phần họa tiết hoa văn có phần tỉ mỉ, công phu hơn, đòi hỏi người nghệ nhân phải khéo léo và có cái tâm, nhập cái hồn. Hình dạng như tên gọi, Kagor là như một biểu tượng linh hồn nên người Raglai có câu “ahòq tanruaq rugãq atơu” tức con tàu quan tài hình thuyền úp xuống. Thông thường, trên thuyền luôn có nhà cửa tượng trưng có cửa gần giống dạng tam môn quan ngôi giữa cao hơn hai ngôi hai bên. Mô hình Kago là kiểu tàu ahòq lớn nhất, so các loại tàu ahòq làm lễ tế khác, thường nhỏ nhất khoảng 50cm x 70 cm, 80cm , hoặc lớn hơn gấp đôi tùy quy mô ngôi nhà mồ và điều kiện gia chủ. Người nghệ nhân cố gọt giũa, bào nhẵn đuôi thuyền, mũi thuyền vẽ hoa văn hình rồng (lưỡng long chầu nguyệt) uốn chầu trên đỉnh các ngôi nhà rất đối xứng tâm, thêm nữa là hình rắn garai. Bên dưới là hàng rào, chim chóc, cá, trái bầu và cả dụng cụ là dao, rìu điều đó cho thấy người Raglai cổ xưa rất sùng bái tự nhiên, cầu phúc, cầu an, no ấm với người về bên kia. Bằng chất liệu thiên nhiên, họ dùng lá trầu giã trộn củ nghệ, đá sỏi, than, tro và cây củ, nhựa cây trong rừng, trên núi để phối trộn màu sắc và chế tác.
Trải qua suốt chiều dài lịch sử, tộc người Raglai từ buổi sơ khai đến thời đại mới đã giữ được nét văn hóa cho riêng mình. Thuyền Kagor là một biểu tượng không chỉ đông đặc phạm trù tập quán xã hội, tín ngưỡng “đa thần”, sùng bái các đấng siêu nhiên, kính trọng, biết ơn ông bà thủy tổ mà còn hiện rõ tính nhân văn, nhân sinh quan sâu đậm. Nhìn từ góc độ khoa học thực tiễn và góc độ văn hóa học tục làm thuyền Kagor dựng trên nóc nhà mồ là một hình thái ý thức xã hội không hề nệ cổ. Chúng tôi nhận thấy tư duy, nhận thức, tài tiên đoán dự báo thời tiết, tri thức dân gian và sự cầu tiến của họ khá tiến bộ. Già làng Pinăng Sung (Khánh Nam – Khánh Vĩnh) chia sẻ kinh nghiệm:“Pateh ia huru ơi hujàt, pateh ia vilàt khòc” nghĩa là “quầng mặt trời thì mưa, quầng mặt trăng thì nắng”.
Kagor được truyền từ hàng thế hệ xa xưa, xét hiện thực khách quan ở thời điểm, không gian ấy mà người Raglai đã hình dung được con tàu lớn với mong muốn vượt khơi, tìm vùng đất mới. Về tâm linh, họ cũng không quá lu mờ khi tôn sùng đấng siêu nhiên. Bởi có lẽ ảnh hưởng ít nhiều văn hóa phương Đông nói chung, văn hóa gốc nông nghiệp của cộng đồng các dân tộc Việt nói riêng. Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, Nhà nước quan tâm chăm lo đời sống nhân dân, người Raglai có mức sống khá ổn định. Nhà của họ xây dựng bằng vật liệu vững chãi sắt thép, xi măng. Nhà mồ cũng kiên cố hóa nên hình tượng nhà mồ truyền thống, thuyền Kagor đa sắc màu dần mai một. Mong rằng các cấp, ngành chức năng quan tâm xúc tiến, hỗ trợ khảo sát, phục hưng để bảo tồn, phát huy nguồn gốc giá trị văn hóa giàu tri thức dân gian, góp phần làm giàu thêm kho tàng văn hóa nghệ thuật, kết chặt khối đại đoàn kết toàn dân tộc như lời Bác Hồ đã dạy
Link